Việt
Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình
lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội của đất nước. Từ thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay, con người
ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh
cơ lập nghiệp trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ các thời Lý, Trần,
Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia Đại Việt.
Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam cũng đồng
thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là cơ sở hết
sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh lịch sử
mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt vời là
xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.
1. TỔ CHỨC CÁC ĐỘI HOÀNG SA VÀ BẮC HẢI, HÌNH
THỨC ĐỘC ĐÁO DUY NHẤT CỦA QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN
CÁC VÙNG QUẦN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐÔNG TRONG CÁC THẾ KỶ XVII-XVIII
Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776.
Sách chép: "Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn
có núi gọi là Cù Lao Ré...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa,
trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để
lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải....
Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người
xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang
lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3
đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật
của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối
thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm
lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều.
Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân
để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân,
hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về... Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải,
không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc
người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho
tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải,
cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi
mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản...
Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính
đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền
Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát
Vàng?) huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến
Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2
tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở
đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc
Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá là Thức Lượng hầu làm thư trả lời" [1].
Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc,
khách quan, xác thực và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu
tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa,
cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa,
Bắc Hải.
Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa của Đại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.
Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải không khác Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên.
Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa của Đại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.
Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải không khác Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên.
Toàn tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686,
phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi
Cát Vàng và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18
chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc.
Khoảng một thập kỷ sau, Hoà thượng người Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: "các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào" [2].
Khoảng một thập kỷ sau, Hoà thượng người Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: "các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào" [2].
Thật ra từ thế kỷ XVI
trở về trước, các nhà hằng hải phương Tây đã có nhiều ghi chép và bản đồ
xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm
Chămpa) hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa) [3] và đoạn bờ
biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa
biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng
Sa)[4]. Như thế từ rất lâu đời các nhà hằng hải phương Tây đã coi các
quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong.
Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người
phương Tây đi đến vùng biển này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về
các quần đảo giữa Biển Đông cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư
liệu chép đến các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi
cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành
cho mình quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên
các tầu bị đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà
vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định:
"Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam" [5].
Như thế, các tư liệu
đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế kỷ XVII đều chép
rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa.
Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ
XVII, đội Hoàng Sa được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong
nguồn sử liệu nào?
Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ, tức là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy
nhiên, sách cũng không xác định rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc
Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan...? Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn
Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm 1775, do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: "Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào
năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai
đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30
người...".
Tư liệu cho phép suy đoán, lúc
đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm
đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế
Hương Hàm 30 suất nữa.
Năm 1636, nguời Hà Lan đã đuợc phép mở một thuơng điếm ở Hội An, dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6 tháng 3, tại Hội An chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc "chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux". Ông có nhiệm vụ xin được bồi hoàn số tiền đó.
Năm 1636, nguời Hà Lan đã đuợc phép mở một thuơng điếm ở Hội An, dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6 tháng 3, tại Hội An chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc "chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux". Ông có nhiệm vụ xin được bồi hoàn số tiền đó.
Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng "những việc đó đã được
xảy ra từ thời Chúa trước (tức Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên
đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự
do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế, vả lại, sau này nếu có
tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá
được cứu hộ nữa". Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu
Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng
Sa, và như vậy càng có cơ
sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất hiện từ đầu những năm 30
của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).
Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa
Nguyễn ở các vùng quần đảo giữa biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút
sự chú ý nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của
Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của
nhà nước, của các địa phương còn có những ghi chép của các thương nhân,
giáo sĩ, các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học
giả trong ngoài và nước.
Cũng đúng vào năm 1776
khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục khảo tả rất cụ thể về vị trí,
đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và
hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương của đội
Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có lịch sử
lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn có nhiệm vụ
chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: "Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã
có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương... Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng
Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ
sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt các
vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có
tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với
kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng
thuế quan đem phụng nạp..." [6].
Không chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức
của Nhà nước mà nguồn tư liệu này còn gắn liền với các di tích và
truyền thuyết ở địa phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa
xuất phát, thậm chí cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những
nghi lễ hết sức đặc biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm
của mình đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi
chết vì một vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: "Hoàng Sa đi có về không; Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi".
2. TRIỂN KHAI HÀNG LOẠT CÁC HÌNH THỨC THỰC THI CHỦ QUYỀN Ở CẢ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG GẦN TRỌN THẾ KỶ XIX
Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường
Sa phong phú, đa dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài
liệu chính thức của vương triều và tài liệu của các học giả. Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong
hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc
kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: "sai mộ dân ngoại
tịch lập làm đôi Hoàng Sa" năm 1803; "sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang
Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển" năm 1815 và năm 1816; nhận địa
đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817...
Nhưng hoạt động thực thi chủ
quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao
hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh. Năm 1833, ông lập kế hoạch phái
người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm 1834, 1835,
ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây bình phong ở
khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái người ra
Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi cát.
Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo
10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ "Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ
quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa
trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ".
Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh
thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối
với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng
trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần
phòng ngoài biển thì bị phạt nặng...Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soạn bộ Minh Mệnh chính yếu,
trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt
vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836, thuyền buôn
nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã
được nhà vua "sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ
nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn...".
Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của
người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên
biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng
biển đảo này. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là
bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm
của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật.... được hoàn
thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851.
Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia,
trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ
bản không khác so với Đại Nam thực lục Chính biên. Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính biên,
trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ
bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định.
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.
Việt sử cương giám khảo lược là
bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài
những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo
Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như
việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội
Hoàng Sa...
Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục.
Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục.
Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: "Năm Minh Mệnh
thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía
tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh
phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2.000 cân".
Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị. Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép "đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm). "Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn.
Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị. Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép "đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm). "Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn.
Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX,
nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương
tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con
thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực
biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã
sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải
các nước phương Tây đương đại. Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có
giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời
Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn.
Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh
Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ
ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt
Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và
13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà
Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản
tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản
đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do
gặp gió lớn mà không xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công
(21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được
25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới
được...
Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực
tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ
quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh.
Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm
hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở
phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía
nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách.
Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ
theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời
Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.
Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục...
Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục...
Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới,
nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa,
Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm
sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ
không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất. Ngay từ khi mới bắt đầu
thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng
thủ biển nhằm củng cố chính quyền.
Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là
Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận:
"Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ
Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao
Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm
có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816
thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này". Các
tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công
nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.
Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều
năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng: "Quần đảo Pracel... Vào năm 1816,
nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ
quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh
giành với ông ta". Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ,
trong đó ở khoảng vĩ tuyến 17 độ bắc và kinh tuyến 110 độ đông, bản đồ
có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.
Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn
cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho
biết: "Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như
dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một
đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến
đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ".
Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny,
cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã
viết sách nói rõ: "Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay,
(tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi
là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá
ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có
thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu,
quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ
họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công
việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính
thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông
đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo
đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng
Trong lên mảnh đất đó".
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ
sức chống lại đã lần lượt để mất chủ quyền về tay thực dân Pháp, trong
đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ
tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến
cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi giá.
Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các
đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày
càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về
các đội Hoàng Sa, Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt
động của các chúa Nguyễn, của vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn,
mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân
dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết
sức nghiêm chỉnh.
Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của
Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn
được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách
Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư
Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay
khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng
Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung thực.
Tất nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng
chủ yếu là bảo vệ và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng
có lúc thiên về công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo
vệ, nhưng dù là thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được
các đội Thuỷ quân.
Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng
Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật,
nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công
việc của đội Thuỷ quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết
định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội
Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập trở lại...
Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội
Thuỷ quân, thậm chí có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi
nữa, thì cứ vẫn là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ
XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng
Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có
được.
Đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp, mặc dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh,
An Hải, Bình An... vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá
vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một
chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo
đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ,
không còn khả năng tổ chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để
bảo vệ trực tiếp kinh thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả
năng khôi phục hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt
động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước
phong kiến Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa
Biển Đông.
Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi
chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện
pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật
và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản
đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ,
trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ
ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội
Thuỷ quân, biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu.
Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa, Trường Sa đều phải có
quyết định của Nhà nước dưới hình thức "tờ sai để thi hành công vụ" và
nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra
khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền
thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật. Nhà
vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay
vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người
hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận.
Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan
nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi
người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người
đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước,
nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là lẽ sống của
chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa
được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những
con người như thế.
Chủ quyền của Việt Nam ở
Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất
của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân
trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét